Khi Công ty giải thể thì trách nhiệm của các cổ đông sẽ được xử lý như thế nào, đặc biệt khi đối tác khởi kiện Cổ đông để đòi một khoản tiền theo tỷ lệ sở hữu cổ phần của Cổ đông trong Công ty cho một khoản nợ mà đối tác cho rằng Công ty chưa thanh toán trước khi giải thể.
Để trả lời được câu hỏi này thì cần làm rõ một số điểm pháp lý quan trọng, cụ thể là (i) Công ty đã hoàn thành việc giải thể chưa, có căn cứ nào cho việc này hay không; (ii) việc giải thể của Công ty có hợp pháp hay không; và (iii) khi Công ty đã giải thể hợp pháp thì tư cách của Cổ đông có còn hay không và Cổ đông có phải kế thừa các nghĩa vụ của Công ty theo tỷ lệ sở hữu cổ phần trước khi Công ty giải thể hay không.
Trước hết, để một công ty được giải thể thì công ty đó phải hoàn thành hết các nghĩa vụ trả nợ với các đối tác. Câu hỏi đặt ra là nếu công ty chưa thực hiện xong hết các nghĩa vụ mà vẫn hoàn thành hồ sơ và được giải thể thì ai sẽ chịu trách nhiệm. Theo Điều 204.2 và Điều 204.3 LDN , nếu xảy ra trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác hay giả mạo thì chỉ thành viên của Hội đồng Quản trị (“HĐQT”) liên đới chịu trách nhiệm giải quyết các khoản nợ còn lại. Điều 204 LDN cũng đề cập đến chủ sở hữu công ty nhưng đó là chủ sở hữu của công ty TNHH một thành viên , mà không có nghĩa là cổ đông. Như vậy, cách thức xử lý các khoản nợ cho cả thời điểm trước và sau khi Công ty giải thể cũng đã được quy định hiện hành lường trước.
LS. Phạm Quốc Tuấn
Luật sư Trưởng – Công ty Luật DIMAC
Theo Điều 96 BLDS và Điều 59.4 Nghị định 78/2015 , khi Công ty đã được giải thể theo thông báo hợp pháp của Sở Kế hoạch và Đầu tư có thẩm quyền (“Sở KHĐ”) thì Công ty đó được xem là không còn tồn tại bởi Sở KHĐT đã chính thức xóa tên Công ty trong sổ đăng ký kinh doanh. Khi đó, các cổ đông trong Công ty sẽ không còn vai trò là cổ đông do pháp nhân đã chấm dứt sự tồn tại của mình. Trong một vụ kiện chúng tôi, Công ty Luật DIMAC, đang hỗ trợ cho khách hàng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chính thức thông báo cho Sở KHĐT rằng hiện chưa có cơ chế để phục hồi lại tư cách pháp nhân của công ty đã giải thể. Tuy nhiên, để xác định trách nhiệm khi quy trình hồ sơ giải thể doanh nghiệp tại Sở KHĐT có vấn đề, Điều 204 LDN quy định nếu có bằng chứng chứng minh hồ sơ giải thể không chính xác hay giả mạo trong thời gian 5 năm kể từ thời điểm nộp hồ sơ giải thể thì thành viên HĐQT của Công ty giải thể sẽ liên đới chịu trách nhiệm.
Ở điểm này, chúng ta có thể rút ra hai (02) kết luận rằng (1) các trách nhiệm về khoản nợ, nếu có của Công ty, phát sinh do hồ sơ giải thể bị làm giả mạo hay không chính xác thì sẽ do các thành viên của HĐQT chịu trách nhiệm mà không thuộc về cổ đông của Công ty; và (2) một khi Công ty đã giải thể hợp pháp, Công ty đã chính thức không tồn tại kể từ ngày được giải thể và các cá nhân, pháp nhân là cổ đông của Công ty sẽ không còn là cổ đông của Công ty đó và do đó, không phải chịu bất kỳ trách nhiệm nào đối với các khoản nợ của Công ty phát sinh trước thời điểm Công ty giải thể, nếu có.
Cuối cùng, để xác định trách nhiệm của Cổ đông, câu hỏi quan trọng nhất có thể là có quy định nào của luật pháp Việt Nam yêu cầu rằng Công ty, nếu trước khi giải thể mà chưa trả một khoản nợ thì sau khi Công ty giải thể, Cổ đông phải chịu trách nhiệm tương ứng với tỷ lệ cổ phần mình sở hữu trong Công ty. Hiện nay, chỉ có Điều 204 LDN quy định trực tiếp vấn đề này, thể hiện rằng nếu Công ty chưa trả khoản nợ mà thì thành viên HĐQT của công ty cổ phần sẽ liên đới chịu trách nhiệm với điều kiện phải có bằng chứng để chứng minh hồ sơ giải thể là giả mạo. Điều 190 LDN thì chỉ quy định về nguyên tắc giữa công ty con và công ty mẹ (nếu là cổ đông sở hữu trên 50% cổ phần phổ thông tại công ty con), theo đó “công ty mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là thành viên, chủ sở hữu hoặc cổ đông trong quan hệ với công ty con”, mà không quy định công ty mẹ [cổ đông lớn] phải chịu trách nhiệm cho khoản nợ của công ty con [công ty cổ phần] sau khi công ty này giải thể. Trong cả hai trường hợp, các quy định hiện hành đều không quy định Cổ đông phải chịu trách nhiệm cho khoản nợ của Công ty đã giải thể, nếu có.
Như vậy, Công ty để được giải thể thì họ phải trả/xử lý hết tất cả các khoản nợ đang có với đối tác và khi họ đã được cho phép giải thể thì hiện nay không có quy định để cho phép Công ty đó “sống lại”. Trường hợp nếu bất kỳ đối tác nào cho rằng hồ sơ giải thể của Công ty có vấn đề thì phải chứng minh và nếu có bằng chứng hợp pháp, thành viên HĐQT của Công ty đã giải thể sẽ liên đới chịu trách nhiệm. Khi Công ty đã giải thể thì tư cách cổ đông của các cổ đông trong Công ty sẽ chấm dứt kể từ ngày giải thể và Cổ đông sẽ không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm cho bất kỳ trách nhiệm hay khoản nợ nào của Công ty, nếu có, trước thời điểm giải thể ngay cả khi đối tác có thể chứng minh. Khi đó, chủ thể hợp pháp mà đối tác có thể yêu cầu chịu trách nhiệm là thành viên HĐQT, mà không phải các cổ đông.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi về Trách nhiệm của cổ đông sau khi Công ty cổ phần giải thế - Một vấn đề tưởng đơn giản mà không dễ. Với đội ngũ luật sư nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư, chúng tôi luôn sẵn sàng cung cấp các giải pháp tối ưu về hiệu quả, chi phí và tối giản về thủ tục pháp lý cho quý khách hàng. Hãy truy cập Website DIMAC và các chuyên mục tin tức khác của chúng tôi để được cập nhật sớm nhất các thông tin tư vấn và chia sẻ kinh nghiệm pháp lý về thị trường.
- Mâu thuẫn giữa các bản hợp đồng được soạn thảo bằng nhiều ngôn ngữ 13/12/2019
- So sánh giữa các hình thức đầu tư Thành lập tổ chức kinh tế, Góp vốn, Mua cổ phần và Phần vốn góp10/12/2019
- [Tư Vấn] Thành lập cơ sở thể thao (Phòng Gym) có vốn đầu tư nước ngoài liệu có hợp pháp tại Việt Nam?05/12/2019
- [Tư Vấn] Những chính sách ưu đãi khi đầu tư tại Việt Nam22/11/2019
- [Tư Vấn] Các hình thức đầu tư tại Việt Nam14/11/2019
- Chương trình tập huấn “Hiểu và áp dụng CISG - Để tham gia hiệu quả hơn vào thương mại quốc tế”14/11/2019